Hoạt động của Công đoàn Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử

Thứ ba - 04/07/2017 03:27 11.393 0
Nhân kỷ niệm 88 năm Ngày thành lập Công đoàn Việt Nam 28/7 (1929 – 2017), Ban Biên tập Website Công đoàn Quảng Trị trân trọng giới thiệu tài liệu tuyên truyền về hoạt động của Công đoàn Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử.
Hoạt động của Công đoàn Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử
Hoạt động của Công đoàn Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử.
I. Hoạt động của Công đoàn Việt Nam những năm 1929-1935:
Ngày 3/2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập trên cơ sở thống nhất các tổ chức cơ sở Đảng ở Việt Nam. Trong hoạt động của mình, Đảng rất chú trọng phát triển cơ sở Công hội đỏ trong giai cấp công nhân và các tổ chức quần chúng khác. Lần lượt các tổ chức Công hội ra đời: Tổng Công hội Đỏ Vinh - Bến Thuỷ, Tổng Công hội Đà Nẵng, Tổng Công hội đỏ Nam Kỳ.
Ngày 1/5/1930, công nhân Nhà máy xe lửa Trường Thi, Cưa, Diêm Bến Thuỷ nổi dậy đấu tranh thực dân Pháp mở màn cho quá trình thành lập Xô viết công nông ở hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh.
Từ giữa năm 1931, Xô viết Nghệ Tĩnh bị thực dân Pháp dùng lực lượng quân sự lớn đàn áp nhưng các cơ sở Công hội đỏ còn lại vẫn tổ chức các cuộc đấu tranh kinh tế của thợ thuyền.
Đến năm 1934, cơ sở công hội được phục hồi rộng rãi hơn và các cuộc bãi công, tổng đình công lại nổ ra ở nhiều hơn trong các nhà máy, hầm mỏ.
Trải qua những thử thách lớn của cách mạng, mặc dù chưa có sự thống nhất trên quy mô cả nước nhưng Công hội đỏ đã góp phần to lớn trong việc tập hợp lực lượng thợ thuyền, đội quân  chủ lực của cách mạng Việt Nam.
II. Công đoàn Việt Nam những năm 1936-1939:
Từ năm 1935, các tổ chức Ái hữu được thành lập chủ yếu theo nghề nghiệp làm bước trung gian tiến tới đòi tự do nghiệp đoàn đã đưa phong trào Công đoàn Việt Nam lên một bình diện mới.
Ở Nam Kỳ, các tổ chức Ái hữu, Nghiệp đoàn mang đậm tính chất ngành nghề trong các đơn vị sản xuất.
Ở Bắc Kỳ, phong trào Ái hữu, Nghiệp đoàn phát triển mạnh trong công nhân và các tầng lớp lao động, lần đầu tiên có sự liên kết các ngành nghề, các địa phương trong tổ chức và tranh đấu.
Khi Đại chiến thế giới lần thứ hai bùng nổ (tháng 9 - 1939), bọn phản động ở thuộc địa ra lệnh phải giải tán các hội Ái hữu, Nghiệp đoàn, bắt giam cán bộ công vận ở các đô thị, khu công nghiệp.
III. Công đoàn Việt Nam những năm 1939-1945:
Cuối năm 1940, Hội Công nhân phản đế đổi tên là Hội Công nhân cứu quốc làm nòng cốt của Việt Minh.
Ngày 15-8-1945, phát xít Nhật đầu hàng Đồng Minh. Đảng đã quyết định phát động toàn dân đứng lên Tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
Trong suốt giai đoạn 1930-1945, dù cho tên gọi khác nhau, hình thức hoạt động lúc bí mật, lúc công khai, dù chưa có điều kiện thống nhất tổ chức trong cả nước, nhưng được sự lãnh đạo chặt chẽ của Đảng cộng sản Đông dương, Công đoàn Việt Nam thật sự là trung tâm đoàn kết của công nhân lao động Việt Nam. Từ 6.000 đoàn viên năm 1930, năm 1945 số đoàn viên đã lên tới hơn 200.000 người, đóng vai trò to lớn trong việc giành chính quyền ở các trung tâm đô thị, các khu công nghiệp  trong thời kỳ Cách mạng tháng Tám năm 1945.
IV. Hoạt động công đoàn trong những năm 1945-1946:
Đầu năm 1946, Hội nghị đại biểu công nhân cứu quốc đã quyết định chuyển Hội công nhân cứu quốc thành công đoàn. Ngày 20-7-1946 tại Nhà hát lớn Hà Nội, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam chính thức ra mắt với hơn 20 vạn đoàn viên.
Trong năm đầu đất nước giành độc lập, tổ chức công đoàn và giai cấp công nhân Việt Nam đã có nhiều đóng góp quan trọng cho công cuộc xây dựng, bảo vệ đất nước, bảo vệ và phát huy thành quả của Cách mạng Tháng Tám: tham gia tích cực vào cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam độc lập. Tại kỳ họp thứ hai, Quốc hội khoá I đã thông qua Dự án Luật Lao động. Dự án này có sự đóng góp  quan trọng của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam trước khi trình Quốc hội.
V. Hoạt động Công đoàn trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1946-1954):
Đêm ngày 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Ngày 11-12-1947, Hội nghị Ban Thường vụ Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã quyết định: “Nhanh chóng tập hợp, động viên công nhân, lao động cả nước dồn sức và xây dựng những cơ sở sản xuất mới ở các chiến khu để vừa sản xuất, vừa chiến đấu.”
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã phát động phong trào thi đua yêu nước, động viên công nhân lao động, khắc phục khó khăn, sản xuất nhiều vũ khí đạn dược và hàng hoá phục vụ sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc.
Năm 1950, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc ta đã giành được nhiều thắng lợi quan trọng. Yêu cầu của sự nghiệp “kháng chiến kiến quốc” đòi hỏi phong trào công nhân và tổ chức Công đoàn phải có sự chuyển biến cao hơn, cả trong nhận thức và hành động.
Đại hội lần thứ I Công đoàn Việt Nam đã họp từ ngày 1 đến ngày 15-1-1950. Mục tiêu của Đại hội là: “Động viên công nhân viên chức cả nước, nhất là công nhân ngành Quân giới sản xuất nhiều vũ khí, khí tài phục vụ cho kháng chiến chống thực dân Pháp đến thắng lợi”.
Trong những năm 1951 - 1952, phong trào công nhân và hoạt động công đoàn ở vùng địch tạm chiếm đã có bước phát triển mới. Trong giai đoạn này, quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc là một.
Thắng lợi quân sự trên toàn chiến trường trong Đông Xuân 1953-1954 mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ, là cơ sở quan trọng cho việc ký kết Hiệp định Giơnevơ về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Đông Dương. Cuộc kháng chiến chín năm chống thực dân Pháp xâm lược đã giành được thắng lợi. Trong chiến thắng chung của dân tộc có những đóng góp to lớn của phong trào công nhân và tổ chức công đoàn.
VI. Công đoàn Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc đấu tranh giải phóng miền Nam (1954 – 1975):
Tháng 9 năm 1957, Kỳ họp thứ 7 Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã thông qua Luật Công đoàn. Luật quy định rõ vai trò, nhiệm vụ và quyền hạn của tổ chức công đoàn, mối quan hệ giữa công đoàn và các cơ quan xí nghiệp tư bản tư doanh; những phương tiện hoạt động của công đoàn.
Trong 10 năm (1965-1975), hệ thống tổ chức và đội ngũ cán bộ công đoàn tiếp tục được củng cố và phát triển. Do yêu cầu của sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, Tổng Công đoàn và các Liên hiệp Công đoàn các tỉnh, thành phố, Công đoàn ngành đã kịp thời chỉ đạo các đơn vị cơ sở chuyển hướng hoạt động, tăng cường củng cố và điều chỉnh nội dung sinh hoạt của công đoàn cơ sở. Cán bộ công đoàn ở những nơi có chiến sự ác liệt đã luôn vững vàng gương mẫu, đi đầu trong tổ chức sản xuất, chiến đấu, chăm lo đời sống cho công nhân, viên chức.
Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ II đã họp từ ngày 23 đến ngày 27/2/1961. Đồng chí Trần Danh Tuyên được bầu làm Tổng Thư ký. Mục tiêu của Đại hội là: “Động viên cán bộ, công nhân, viên chức thi đua lao động sản xuất, xây dựng CNXH ở miền Bắc, với tinh thần “Mỗi người làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt” góp phần đấu tranh thống nhất nước nhà”.
Đại hội lần thứ III Công đoàn Việt Nam đã họp từ ngày 11 đến ngày 14/2/1974. Đại hội đã bầu đồng chí Tôn Đức Thắng, Chủ tịch Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà làm Chủ tịch danh dự. Đồng chí Hoàng Quốc Việt được bầu làm Chủ tịch. Mục tiêu Đại hội là: “Động viên sức người, sức của chi viện cho chiến trường, tất cả để giải phóng miền Nam thống nhất đất nước”.
Ngày 17/4/1961, dưới sự lãnh đạo của Đảng, tại căn cứ Suối Mây, chiến khu D, tỉnh Tây Ninh, Hội lao động giải phóng miền Nam ra đời (sau đổi tên là Liên hiệp Công đoàn giải phóng miền Nam Việt Nam). Năm 1962, Hội lao động giải phóng được Liên hiệp Công đoàn thế giới công nhận là thành viên chính thức.
Trên cơ sở phát triển Hội lao động giải phóng, những năm từ 1965-1970 đã hình thành Liên hiệp Công đoàn giải phóng miền Nam, có hệ thống tổ chức trong toàn miền. Trong cuộc nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, Công đoàn giải phóng vận động công nhân lao động ở hầu khắp các đô thị nhất loạt nổi dậy phối hợp với các lực lượng vũ trang tiêu diệt địch giành quyền làm chủ.
Trong chiến dịch Hồ Chí Minh mùa Xuân năm 1975, ở hầu khắp các thành phố, thị xã công nhân chủ động nổi dậy bảo vệ nhà máy, xí nghiệp và phối hợp với lực lượng vũ trang giải phóng thành phố.
VII. Công đoàn Việt Nam trong công cuộc cả nước xây dựng CNXH (1975 - 1986):
Đại hội Công đoàn toàn quốc lần thứ IV đã họp từ ngày 8 đến ngày 11/5/1978. Đại hội đã bầu đồng chí Nguyễn Văn Linh (sau này là Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng) làm Chủ tịch. Mục tiêu Đại hội là: “Động viên giai cấp công nhân và những người lao động khác thi đua lao động, sản xuất, phát triển kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hoá trong cả nước”.
Đại hội lần thứ V Công đoàn Việt Nam tiến hành từ ngày 16 - 18/11/1983. Đại hội đã bầu Đồng chí Nguyễn Đức Thuận là Chủ tịch. Mục tiêu của Đại hội là  “Động viên công nhân lao động thực hiện 3 chương trình kinh tế lớn của Đảng. Phát triển nông nghiệp, công nghiệp thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu”.
Qua 10 năm, đội ngũ công nhân, viên chức đã có nhiều đóng góp quan trọng cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Giữa những năm 1980 nền kinh tế nước ta rơi vào tình trạng khủng hoảng, giá cả hàng hoá, tiêu dùng tăng nhanh, nảy sinh nhiều tiêu cực trong phân phối làm cho đời sống của nhân dân nhất là công nhân, viên chức, lao động gặp nhiều khó khăn.
VIII. Công đoàn Việt Nam trong công cuộc đổi mới đất nước từ 1986 đến nay:
Đại hội lần thứ VI Công đoàn Việt Nam họp từ ngày 17 đến ngày 20/10/1988 đã bầu đồng chí Nguyễn Văn Tư  làm Chủ tịch. Mục tiêu của Đại hội là: “ Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng vì việc làm, đời sống, dân chủ và công bằng xã hội”.
Đại hội lần thứ VII Công đoàn Việt Nam họp từ ngày 9 đến 12/11/1993 đã bầu lại đồng chí Nguyễn Văn Tư làm Chủ tịch. Mục tiêu của Đại hội là: “ Đổi mới tổ chức và hoạt động Công đoàn, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, chăm lo và bảo vệ lợi ích của công nhân lao động”.
Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ VIII đã họp từ ngày 3/11 đến ngày 6/11/1998 đã bầu đồng chí Cù Thị Hậu làm Chủ tịch. Mục tiêu của Đại hội là: “Vì sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, vì việc làm, đời sống, dân chủ và công bằng xã hội, xây dựng giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn vững mạnh”.
Đại hội lần thứ IX Công đoàn Việt Nam họp từ ngày 10 đến ngày 13/10/2003 đã bầu đồng chí Cù Thị Hậu tái đắc cử Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam. Tháng 12/2006, đồng chí Đặng Ngọc Tùng được bầu làm Chủ tịch. Mục tiêu của Đại hội là: “Xây dựng giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn vững mạnh, chăm lo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của CNVCLĐ, góp phần tăng cường đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.
Đại hội lần thứ X Công đoàn Việt Nam họp từ ngày 02 - 05/11/2008 đã nhất trí bầu đồng chí Đặng Ngọc Tùng tái đắc cử Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam nhiệm kỳ (2008-2013). Đại hội đề ra khẩu hiệu hành động: “Đổi mới, sáng tạo; bảo vệ quyền lợi hợp pháp  của đoàn viên, công nhân, viên chức, lao động, vì sự phát triển ổn định,  bền vững của đất nước”. Đại hội xác định mục tiêu, phương hướng: “Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của công đoàn các cấp; hướng về cơ sở, lấy cơ sở làm địa bàn hoạt động chủ yếu, lấy đoàn viên, CNVCLĐ làm đối tượng vận động; chuyển mạnh hoạt động công đoàn vào việc tổ chức thực hiện chức năng đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, CNVCLĐ; xây dựng quan hệ lao động hài hoà, ổn định, tiến bộ; góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế- xã hội của đất nước”.
Đại hội lần thứ XI Công đoàn Việt Nam diễn ra từ ngày 27 đến ngày 30 tháng 7 năm 2013, tại Thủ đô Hà Nội. Đại hội đã bầu đồng chí Đặng Ngọc Tùng tái đắc cử Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam nhiệm kỳ (2013-2018). Phương châm hành động của Đại hội: “Vì quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên và người lao động, vì sự phát triển bền vững của đất nước, tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động công đoàn”. Đại hội xác định mục tiêu, phương hướng: “Tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động công đoàn theo hướng vì đoàn viên và người lao động, vì sự phát triển bền vững của đất nước; hướng mạnh về cơ sở, thực hiện tốt chức năng chăm lo đời sống, đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên và người lao động; tham gia có hiệu quả vào công tác quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội; nâng cao chất lương công tác tuyên truyền, vận động, giáo dục và tổ chức thi đua yêu nước trong đoàn viên và người lao động; đẩy mạnh phát triển đoàn viên, thành lập công đoàn cơ sở, chăm lo đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công đoàn, xây dựng tổ chức công đoàn vững mạnh, góp phần xây dựng giai cấp công nhân ngày càng lớn mạnh, xứng đáng là lực lượng nòng cốt, đi đầu trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.
 

Tổng số điểm của bài viết là: 6 trong 2 đánh giá

Xếp hạng: 3 - 2 phiếu bầu
Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây