Kết quả sau 3 năm Công đoàn tham gia triển khai thực hiện Bộ luật Lao động năm 2012

Thứ sáu - 27/05/2016 02:50 2.188 0
Lãnh đạo LĐLĐ tỉnh đi cơ sở nắm tình hình thực hiện chính sách pháp luật về lao động và công đoàn
Lãnh đạo LĐLĐ tỉnh đi cơ sở nắm tình hình thực hiện chính sách pháp luật về lao động và công đoàn
                                                              NGUYỄN ĐĂNG BẢO
                                           Phó Chủ tịch Thường trực LĐLĐ tỉnh Quảng Trị 



Bộ luật Lao động năm 2012 được Quốc hội khóa XIII (kỳ họp thứ 3) thông qua ngày 18/6/2012 có hiệu lực từ ngày 1/5/2013 là bộ luật được sửa đổi, bổ sung Bộ luật Lao động năm 1994 nhằm tiếp tục cụ thể hoá Hiến pháp năm 1992, phù hợp với định hướng sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 (chính thức đã có Hiến pháp 2013) và kịp thời thể chế hoá mục tiêu, quan điểm, định hướng xây dựng đất nước của Đảng Cộng sản Việt Nam được thể hiện qua các văn kiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X, lần thứ XI, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020; với tinh thần bảo vệ người lao động, đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người sử dụng lao động; tăng cường và tiếp tục đổi mới quản lý nhà nước về lao động, tôn trọng quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, quyền thương lượng và tự định đoạt của các bên trong quan hệ lao động theo quy định của pháp luật lao động.

Qua 3 năm tổ chức Công đoàn tham gia triển khai thực hiện Bộ luật Lao động trên địa bàn đạt được những kết quả cơ bản. 

Về công tác tuyên truyền, phổ biến, LĐLĐ tỉnh đã chủ động thực hiện công tác tuyên truyền với nhiều hình thức phong phú; hình thành đội ngũ báo cáo viên tuyên truyền pháp luật lao động và công đoàn, kiện toàn văn phòng tư vấn pháp luật lao động và công đoàn thuộc Ban Chính sách pháp luật LĐLĐ tỉnh để kịp thời tư vấn cho CĐCS và người lao động; biên soạn tài liệu hỏi-đáp ngắn gọn phù hợp với điều kiện sinh hoạt và nhận thức của công nhân, lao động trong các doanh nghiệp. Từ kết quả của công tác tuyên truyền của tổ chức Công đoàn, đến nay bước đầu người lao động ý thức được việc chấp hành kỷ luật lao động, nhu cầu tìm hiểu pháp luật lao động và nhận thức về quyền lợi của người lao động từng bước được nâng cao. Người sử dụng lao động đã có những nhìn nhận đúng đắn hơn về nghĩa vụ, quan tâm hơn đến tâm tư nguyện vọng và đời sống của người lao động, chế độ chính sách đối với người lao động được thực hiện đầy đủ, đúng pháp luật, phối hợp với tổ chức Công đoàn để xây dựng quan hệ lao động hài hoà trong doanh nghiệp. Tình trạng khiếu tố, khiếu nại không đúng quy định có xu hướng giảm, trên địa bàn tỉnh không có tình trạng đình công, bãi công. 

Công tác giám sát, kiểm tra thực hiện Bộ luật Lao động được các cấp Công đoàn chú trọng, ngoài việc phối hợp với Sở Lao động, TB&XH kiểm tra định kỳ hàng năm đối với các doanh nghiệp, LĐLĐ tỉnh đã chỉ đạo và hướng dẫn cụ thể cho CĐCS giám sát thực hiện việc thực hiện hợp đồng lao động, thoả ước lao động tập thể, nâng cao kỹ năng đàm phán để bổ sung thoả ước lao động có nhiều điều khoản có lợi hơn cho người lao động. Tăng cường cán bộ công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở trợ giúp cho CĐCS trong tổ chức thương lượng, đối thoại với doanh nghiệp, tư vấn cho người lao động trong thực hiện hợp đồng lao động. Theo báo cáo của UBND tỉnh, hiện nay trên địa bàn tỉnh có khoảng 2.300 doanh nghiệp đang hoạt động và có sử dụng lao động, thu hút khoảng 35.000 lao động (kể cả lao động làm việc theo hợp đồng thời vụ và công việc nhất định); tỷ lệ lao động trong các doanh nghiệp được ký kết hợp đồng với người sử dụng lao động đạt 94,8%, phần lớn hợp đồng lao động thực hiện đúng quy định của luật. Tỷ lệ doanh nghiệp có tổ chức CĐCS ký kết thoả ước lao động tập thể mới chỉ đạt 35,3%, một số thoả ước lao động tập thể có điều khoản có lợi hơn cho người lao động, ban hành được quy chế đối thoại để tổ chức đối thoại với người lao động theo định kỳ.                                             

Việc thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn tại doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức theo Điều 189 (Chương XIII) của Luật được Công đoàn các cấp tích cực triển khai theo kế hoạch chỉ đạo của Ban Thường vụ LĐLĐ tỉnh. Qua 3 năm triển khai thực hiện, toàn tỉnh đã thành lập mới được 77 CĐCS và phát triển được 4.409 đoàn viên (toàn tỉnh hiện có 160 CĐCS trong các doanh nghiệp, với số lượng 7.493 đoàn viên). Về vai trò của tổ chức Công đoàn trong quan hệ lao động, đối với các doanh nghiệp đã có tổ chức CĐCS cơ bản đã thực hiện được những quy định theo luật, như thực hiện vai trò đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên công đoàn, người lao động; tăng cường việc tham gia thương lượng, ký kết và giám sát việc thực hiện thoả ước lao động tập thể, thang lương, bảng lương, định mức lao động, quy chế trả lương, quy chế thưởng, nội quy lao động, quy chế dân chủ trong doanh nghiệp theo quy định của Nghị định 60/NĐ-CP. Vai trò của Công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở đối với CĐCS cũng như các doanh nghiệp chưa có tổ chức CĐCS được tăng cường để thực hiện việc trợ giúp cũng như thực hiện chức năng đại diện theo quy định; ở những doanh nghiệp chưa thành lập tổ chức CĐCS thì Công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở đều có theo dõi để giúp người lao động thực hiện được quyền và nghĩa vụ của mình. Trách nhiệm người sử dụng lao động đối với tổ chức Công đoàn cơ bản là thuận lợi, tạo điều kiện cho người lao động thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn, đa số doanh nghiệp đều có ý thức phối hợp và tạo điều kiện thuận lợi cho Công đoàn cấp trên tuyên truyền, vận động phát triển đoàn viên, thành lập CĐCS, bố trí công tác cán bộ công đoàn phù hợp để có điều kiện thực hiện chức năng đại diện cho người lao động, bảo đảm điều kiện hoạt động cho cán bộ công đoàn. 

Tuy vậy, qua 3 năm triển khai thực hiện Bộ luật Lao động 2012, vẫn còn một số tồn tại, hạn chế. Hệ thống tổ chức của Công đoàn trên thực tế chưa phù hợp để đủ sức thực hiện những chức năng, nhiệm vụ của tổ chức Công đoàn theo quy định tại Chương XIII của Bộ luật Lao động, đặc biệt là công tác tổ chức, bộ máy của Công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở (LĐLĐ huyện, thị xã, thành phố; Công đoàn ngành) sắp xếp chưa phù hợp; biên chế cán bộ chuyên trách cho Công đoàn ngành chỉ từ 1 đến 2 người; một số Công đoàn ngành số lượng đoàn viên quá ít, kinh phí công đoàn không đủ trả lương cho 1 cán bộ chuyên trách; năng lực một số cán bộ công đoàn để thực hiện nhiệm vụ theo quy định của luật chưa được đáp ứng, hoạt động còn mang tính hành chính, chưa gắn với cơ sở. Vì vậy việc thực hiện trách nhiệm hỗ trợ công đoàn cơ sở trong tổ chức hoạt động cũng như thực hiện chức năng đại diện của tổ chức công đoàn đối với doanh nghiệp chưa có tổ chức Công đoàn chưa đáp ứng, có nơi còn không thực hiện được. Nhận thức của một số cán bộ công đoàn chưa thực sự chuyển biến, cán bộ chủ chốt của Công đoàn cấp trực tiếp cơ sở chưa dành thời gian chính để hỗ trợ hoạt động cho CĐCS và người lao động tại các doanh nghiệp chưa có tổ chức Công đoàn… Vì vậy, việc tổ chức thương lượng, ký kết thoả ước lao động tập thể trong các doanh nghiệp hiệu quả chưa cao, tỷ lệ doanh nghiệp có thoả ước lao động tập thể mới đạt 35% (đối với các doanh nghiệp có tổ chức CĐCS); công tác xây dựng quy chế đối thoại và tổ chức đối thoại trong các doanh nghiệp chưa được thực hiện nghiêm túc ảnh hưởng lớn đến vai trò của tổ chức CĐCS trong thực hiện Luật. 

Số lượng doanh nghiệp đăng ký hoạt động trên địa bàn thì nhiều, hơn 2.300 doanh nghiệp, nhưng số doanh nghiệp sử dụng từ 10 lao động trở lên có tính ổn định rất ít, đa số có quy mô sản xuất nhỏ, chủ yếu là buôn bán thương mại, các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực xây dựng cơ bản chủ yếu đăng ký để đấu thầu công trình, dự án, sau đó thuê lại nhân công, việc quản lý lao động lỏng lẻo vì vậy công tác phát triển đoàn viên thành lập tổ chức CĐCS còn gặp nhiều khó khăn. Việc thực thi các nghị định hướng dẫn Bộ luật Lao động và Luật Công đoàn của các cơ quan nhà nước chưa được triệt để... 

Từ những kết quả đạt được cũng như những vấn đề còn hạn chế, trong thời gian tới tổ chức Công đoàn cần đúc rút thực tiễn tiếp tục hoàn thiện hệ thống tổ chức, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ công đoàn, đặc biệt là nâng cao nhận thức của đội ngũ cán bộ công đoàn trong đổi mới tư duy và hành động về hoạt động công đoàn trong thời kỳ mới, thời kỳ hội nhập và những cam kết của nhà nước trong Hiệp định đối tác thương mại xuyên Thái Bình Dương (TPP), thực hiện tốt chức năng của tổ chức Công đoàn theo quy định của Bộ luật Lao động 2012 và Luật Công đoàn, đáp ứng được kỳ vọng của công nhân, viên chức, lao động về thực hiện vai trò chức năng đại điện bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng hợp pháp cho đoàn viên và người lao động.

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây