Kỷ niệm 110 năm Ngày sinh của đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn

Thứ ba - 28/02/2017 20:48 2.365 0
Nhân kỷ niệm 110 năm Ngày sinh của đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn (07/4/1907 – 07/4/2017), Web Công đoàn Quảng Trị trân trọng giới thiệu đề cương tìm hiểu về thân thế, sự nghiệp cách mạng của đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn.
Tượng đài đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn tại T.p Đông Hà, Quảng Trị
Tượng đài đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn tại T.p Đông Hà, Quảng Trị
I.Khái quát quá trình hoạt động cách mạng của đồng chí Lê Duẩn.
Đồng chí Lê Duẩn sinh ngày 07 - 04 - 1907 tại làng Bích La, xã Triệu Đông và lớn lên trong tình yêu thương đùm bọc của bà con làng Hậu Kiên, xã Triệu Thành, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Xuất thân từ một gia đình lao động có truyền thống yêu nước, đồng chí sớm giác ngộ cách mạng, hưởng ứng lời kêu gọi của đồng chí Nguyễn Ái Quốc đi theo con đường cách mạng vô sản. Đồng chí tham gia Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên từ đầu năm 1928 và năm 1930 trở thành một trong những đảng viên lớp đầu của Đảng.
Năm 1931, đồng chí là ủy viên Ban Tuyên huấn của Xứ ủy Bắc Kỳ và cũng trong năm đó, đồng chí bị chính quyền thực dân Pháp bắt giam. Sau khi bắt, đồng chí bị địch tạm giam tại Sở Mật thám Đông Dương rồi nhà tù Hỏa Lò (Hà Nội). Tại nhà tù Hỏa Lò, địch mở phiên tòa xét xử kết án đồng chí 20 năm tù cầm cố. Sau đó, chúng lưu đày đồng chí đến các nhà tù Sơn La, Côn Đảo. Tại các nhà tù này, đồng chí cùng nhiều đảng viên cộng sản lãnh đạo các cuộc đấu tranh chống chế độ giam cầm hà khắc và tổ chức việc học tập, truyền bá Chủ nghĩa Mác - Lênin, giác ngộ lý tưởng cách mạng cho anh em trong tù.
Năm 1936, do cuộc đấu tranh của nhân dân ta và thắng lợi của Mặt trận nhân dân Pháp, chính quyền thực dân ở Đông Dương buộc phải trả tự do cho nhiều chiến sĩ cách mạng Việt Nam, trong đó có đồng chí Lê Duẩn. Ra khỏi nhà tù, đồng chí ra sức hoạt động cách mạng ở các tỉnh Trung kỳ, thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng thành lập Mặt trận Dân chủ Đông Dương nhằm động viên, tập hợp quần chúng đấu tranh chống bọn phản động thuộc địa, chống nguy cơ phát xít và chiến tranh. Năm 1937, đồng chí Lê Duẩn được cử giữ chức Bí thư Xứ ủy Trung Kỳ. Những hoạt động tích cực và hiệu quả của đồng chí góp phần vào cao trào đấu tranh sôi nổi trong cả nước.
Năm 1939, đồng chí Lê Duẩn được cử vào Ban Thường vụ Trung ương Đảng và cuối năm đó, đồng chí đã cùng đồng chí Nguyễn Văn Cừ - Tổng Bí thư của Đảng, chủ trì Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương, quyết định thành lập Mặt trận Phản đế Đông Dương thay cho Mặt trận Dân chủ, chuyển hướng cuộc đấu tranh cách mạng sang một thời kỳ mới.
Năm 1940, đồng chí lại bị địch bắt ở Sài Gòn, kết án 10 năm tù và đày di Côn Đảo lần thứ hai. Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, đồng chí được Đảng và Chính phủ đón về đất liền, tham gia cuộc kháng chiến ở Nam Bộ.
Năm 1946, đồng chí Lê Duẩn ra Hà Nội, làm việc bên cạnh Chủ tịch Hồ Chí Minh, góp phần cùng Trung ương Đảng chuẩn bị cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Cuối năm đó, đồng chí được Bác Hồ và Trung ương Đảng cử vào lãnh đạo cuộc kháng chiến ở Nam Bộ. Tại Đại hội lần thứ II của Đảng năm 1951, đồng chí được bầu vào BCH Trung ương và Bộ Chính trị. Từ năm 1946 đến năm 1954, với cương vị Bí thư Xứ ủy, rồi Bí thư Trung ương Cục miền Nam, đồng chí được phân công trực tiếp cùng với tập thể lãnh đạo Trung ương Cục tổ chức cuộc kháng chiến ở Nam Bộ và tiến hành cải cách ruộng đất trong các vùng giải phóng.
Từ năm 1954 đến năm 1957, sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, đồng chí Lê Duẩn được Trung ương phân công ở lại miền Nam để lãnh đạo phong trào cách mạng. Trong những năm tháng vô cùng khó khăn này, đồng chí đã kiên trì bám trụ ở những vùng nông thôn hẻo lánh của Nam bộ đến trung tâm các thành phố lớn Sài Gòn, Đà Lạt... để củng cố các cơ sở cách mạng, chuẩn bị cuộc chiến đấu chống Mỹ, cứu nước.
Năm 1957, Trung ương Đảng cử đồng chí lãnh đạo công việc chung của Đảng bên cạnh Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nhận trọng trách mới, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng chí đã cùng tập thể Bộ Chính trị, BCH Trung ương Đảng chuẩn bị xây dựng Nghị quyết 15 (khóa II), mở ra bước ngoặt lịch sử của cách mạng miền Nam. Năm 1960, tại Đại hội lần thứ III, đồng chí Lê Duẩn với trọng trách là Phó Ban chuẩn bị văn kiện Đại hội, đã trình bày Báo cáo chính trị nêu ra hai chiến lược cách mạng: Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, kết hợp cách mạng hai miền nhằm mục tiêu chung là hoàn thành giải phóng dân tộc, thực hiện thống nhất nước nhà. Tại Đại hội, đồng chí tiếp tục được bầu vào BCH Trung ương Đảng và Bộ Chính trị, được bầu là Bí thư thứ nhất BCH Trung ương Đảng.
Suốt 15 năm trên cương vị này, trong hoàn cảnh đất nước trải qua thử thách cực kỳ nghiêm trọng và tình hình quốc tế diễn biến phức tạp, đồng chí Lê Duẩn đã cùng Bộ Chính trị và Trung ương Đảng kiên định đường lối độc lập, tự chủ, tranh thủ sự viện trợ, giúp đỡ và đoàn kết quốc tế, sáng suốt lãnh đạo nhân dân và các LLVT cách mạng nước ta đánh thắng giặc Mỹ xâm lược và tay sai, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước tiến lên CNXH.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (năm 1976) và lần thứ V (năm 1982), đồng chí tiếp tục được bầu vào BCH Trung ương Đảng, Bộ Chính trị và là Tổng Bí thư BCH Trung ương Đảng. Tại Đại hội lần thứ IV, Báo cáo chính trị của BCH Trung ương Đảng do đồng chí trình bày, đã tổng kết thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và vạch ra đường lối chung của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Tại Đại hội lần thứ V, thay mặt BCH Trung ương Đảng, đồng chí đã trình bày Báo cáo chính trị, vạch rõ hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng thành công CNXH, bảo vệ vững chắc Tổ quốc XHCN; đồng thời định ra chiến lược kinh tế trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ.
Hơn mười năm từ khi đất nước thống nhất, đồng chí cùng BCH Trung ương Đảng đã lãnh đạo quân và dân ta giành được những thành tựu quan trọng trong công cuộc khôi phục, cải tạo và phát triển kinh tế, phát triển văn hóa theo đường lối xây dựng CNXH và tiến hành thắng lợi hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.
Đồng chí Lê Duẩn là đại biểu Quốc hội từ khóa II đến khóa VII.
Với những cống hiến to lớn của đồng chí Lê Duẩn, Đảng và Nhà nước ta đã tặng đồng chí Huân chương Sao vàng. Các nước Liên Xô, Lào, Campuchia, Ba Lan, Bungari, Cu Ba, Cộng hoà Dân chủ Đức, Hung gari, Mông Cổ, Tiệp Khắc đã tặng đồng chí nhiều huân chương cao quý. Ủy ban Giải thưởng quốc tế Lênin tặng đồng chí giải thưởng “Vì sự nghiệp củng cố hoà bình giữa các dân tộc”.
II. Những cống hiến to lớn của đồng chí Lê Duẩn
1. Đồng chí Lê Duẩn - người chiến sĩ cộng sản kiên cường, nhà lãnh đạo kiệt xuất của Đảng.
Từ một thanh niên giàu lòng yêu nước, say mê với lý tưởng cách mạng, đồng chí Lê Duẩn sớm trở thành một chiến sĩ thuộc lớp cận vệ đầu tiên của Đảng. Vừa hoạt động cách mạng, vừa học tập, đồng chí rất say mê đọc Đường cách mệnh của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, báo Thanh niên, các tác phẩm của Mác, Ăngghen, Lênin... từng bước bồi đắp cho mình những tri thức mới, nâng cao thêm tinh thần yêu nước và ý chí cách mạng. Do được hoạt động, gần gũi với Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng chí nhận được sự dìu dắt và chỉ đạo trực tiếp của Người. Đó là điều kiện thuận lợi để đồng chí tiếp thu và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong các lĩnh vực công tác do tổ chức phân công. Quan điểm và phương pháp của đồng chí Lê Duẩn chính là thể hiện sự trung thành và phát triển sáng tạo tư tưởng, phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh. Trên cương vị Tổng Bí thư của Đảng, đồng chí Lê Duẩn đã thực hiện xuất sắc những điều toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta hứa trong Lễ truy điệu Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trải qua quá trình hoạt động cách mạng kiên cường, phong phú của mình, đồng chí đã nêu một tấm gương tiêu biểu về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh. Là một người giản dị, khiêm tốn, giàu lòng nhân ái, hết lòng vì Đảng, vì dân, đồng chí Lê Duẩn đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, cho tự do, hạnh phúc của nhân dân và cho lý tưởng cộng sản. Cuộc đời hoạt động gần sáu mươi năm của đồng chí gắn liền với quá trình cách mạng nước ta từ những năm hai mươi đến những năm tám mươi của thế kỷ XX. Đồng chí đã tham gia hoạt động ở cả ba miền: Bắc, Trung, Nam,  trải qua mọi thử thách, gian nan, luôn luôn gần gũi cán bộ, chiến sĩ và nhân dân lao động. Từ cuối những năm ba mươi cho đến khi qua đời, đồng chí là một nhà lãnh đạo quan trọng của Đảng. Đặc biệt từ sau Đại hội III của Đảng năm 1960, với cương vị là Bí thư thứ nhất, rồi Tổng Bí thư BCH Trung ương Đảng, đồng chí đã có những đóng góp quan trọng vào sự lãnh đạo của Đảng, đưa sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Lý tưởng và hoài bão suốt đời của đồng chí là Tổ quốc độc lập và thống nhất, nhân dân làm chủ đất nước, làm chủ xã hội và làm chủ cuộc sống của mình. Vai trò lãnh đạo của đồng chí thể hiện nổi bật ở những giai đoạn cách mạng sau:
- Năm 1928, đồng chí gia nhập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên và trở thành một trong những đảng viên lớp đầu tiên của Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1930, đồng chí trở thành một trong những đảng viên lớp đầu của Đảng Cộng sản Việt Nam do đồng chí Nguyễn Ái Quốc sáng lập. Năm 1931, đồng chí là Ủy viên Ban Tuyên huấn Xứ ủy Bắc kỳ. Tháng 4 năm đó, đồng chi bị địch bắt và kết án 20 năm tù cầm cố, lần lượt bị giam ở các nhà tù Hỏa Lò, Sơn La và Côn Đảo. Năm 1936, do thắng lợi của Mặt trận Bình dân ở Pháp và phong trào đấu tranh của nhân dân ta, chính quyền thực dân buộc phải trả tự do cho nhiều chiến sỹ cộng hòa trong đó có đồng chí Lê Duẩn. Từ Côn Đảo trở về, bất chấp sự đe dọa, quản thúc của kẻ thù và sức khỏe giảm sút do tù đày, đồng chí lặn lội khắp miền Trung để gây dựng cơ sở cách mạng, duy trì và phát triển phong trào cách mạng, góp phần vào thắng lợi của phong trào dân chủ (1936 - 1939) dưới sự lãnh đạo của Đảng. Năm 1937, đồng chí được giữ chức vụ Bí thư Xứ ủy Trung Kỳ. Năm 1939, khi được giao trọng trách Ủy viên Thường vụ Trung ương Đảng, đồng chí Lê Duẩn đã cùng với đồng chí Nguyễn Văn Cừ - Tổng Bí thư của Đảng, chủ trì Hội nghị lần thứ sáu BCH Trung ương Đảng tháng 11-1939. Hội nghị đã mở ra thời kỳ mới cho cách mạng Việt Nam: từ đấu tranh đòi các quyền dân chủ, dân sinh chuyển sang đấu tranh nhằm mục tiêu trực tiếp đánh đổ chính quyền đế quốc, thực dân và phong kiến tay sai, chuẩn bị những điều kiện cần thiết tiến tới giành chính quyền về tay nhân dân. Nghị quyết Hội nghị đã khẳng định những tư tưởng chiến lược của cách mạng Việt Nam mà Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định từ Hội nghị thành lập Đảng (1930). Đây là bước mở đầu của một cao trào cách mạng mới, tiến tới thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
- Trong thời kỳ chống thực dân Pháp, trên cương vị là Phó Bí thư, rồi Bí thư Xứ ủy Nam Bộ và từ sau Đại hội II của Đảng (1951) là Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Cục miền Nam, đồng chí đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh giao phó là trực tiếp chỉ đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở Nam Bộ. Đồng chí Lê Duẩn đã vận dụng sáng tạo đường lối, phương châm kháng chiến do Trung ương Đảng đề ra, cùng với Xứ ủy Nam Bộ, Trung ương Cục miền Nam giải quyết một loạt vấn đề quan trọng: Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, thống nhất các lực lượng vũ trang, chia cấp ruộng đất cho nông dân nghèo, củng cố liên minh công nông, phát huy sức mạnh to lớn của Mặt trận dân tộc thống nhất, động viên mọi tầng lớp nhân dân đứng lên chống giặc cứu nước. Quân và dân Nam Bộ đã anh dũng kháng chiến, làm thất bại hoàn toàn âm mưu địch đánh chiếm Nam Bộ, tách Nam Bộ khỏi Việt Nam, lấy đó làm bàn đạp để thôn tính cả nước ta. Từ thành công của kháng chiến ở Nam Bộ, Đảng ta đã rút ra những kinh nghiệm quý báu cho cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp và cho cuộc chiến đấu chống Mỹ, cứu nước sau này.
- Trong thời kỳ chống Mỹ, cứu nước, trên cương vị Bí thư thứ nhất BCH Trung ương Đảng ở vào một thời điểm lịch sử đầy thử thách cam go và nặng nề, cùng một lúc phải thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược của dân tộc là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, đương đầu với một đế quốc có tiềm lực quân sự và bộ máy chiến tranh khổng lồ, đồng chí Lê Duẩn là người chịu trách nhiệm chủ yếu trước Trung ương Đảng về phong trào cách mạng miền Nam. Dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng chí đã cùng tập thể Bộ Chính trị và Trung ương Đảng hoạch định, phát triển và từng bước hoàn chỉnh đường lối chiến lược, phương pháp cách mạng và phương thức tiến hành chiến tranh cách mạng. Trong những năm đen tối dưới chế độ thực dân mới của đế quốc Mỹ ở miền Nam, bằng kinh nghiệm thực tiễn nhiều năm bám sát cuộc đấu tranh của đồng bào miền Nam, đồng chí đã soạn thảo văn kiện nổi tiếng “Đề cương cách mạng miền Nam”. Bản Đề cương chỉ rõ: chính quyền miền Nam Việt Nam là chính quyền thực dân kiểu mới, tay sai của đế quốc Mỹ. Chính quyền đó đã chà đạp thô bạo thành quả mà nhân dân ta giành được trong kháng chiến chống thực dân Pháp, phá hoại Hiệp định Giơnevơ. Trên cơ sở nhận định về bản chất của kẻ thù mới, từ thực tiễn tình hình miền Nam, Đề cương khẳng định: “Nhân dân ta ở miền Nam chỉ có một con đường là vùng lên chống Mỹ - Diệm để cứu nước và tự cứu mình. Đó là con đường cách mạng. Ngoài con đường đó, không có con đương nào khác”. Bản Đề cương còn xác định rõ “Mục đích, nhiệm vụ và đối tượng của cách mạng miền Nam”, nêu lên được “Hình thức đấu tranh và khả năng phát triển của phong trào cách mạng miền Nam”. Đề cương ra đời đã góp phần hướng dẫn cán bộ, nhân dân tìm ra phương thức đấu tranh chống lại kẻ thù tàn bạo, làm dấy lên một không khí tràn đầy tin tưởng, phấn chấn, tạo ra phong trào Đồng khởi mạnh mẽ của nhân dân miền Nam. Những tư tưởng đúng đắn và sáng tạo mà “Đề cương cách mạng miền Nam” nêu lên là cơ sở để Đảng ta ra Nghị quyết Trung ương 15 (khoá II), tiếp đó là Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III. Từ khi rời Sài Gòn - Chợ Lớn ra Trung ương cho đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, tư tưởng chỉ đạo của đồng chí đối với miền Nam được thể hiện tập trung trong 31 bức điện, thư (tập “Thư vào Nam”) được viết trong thời gian từ tháng 2 - 1961 đến khi kết thúc chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Những tư tưởng chỉ đạo của đồng chí góp phần quan trọng để Đảng ta tìm ra giải pháp tối ưu đưa cách mạng miền Nam tiến lên một cách vững chắc: Mở đầu chiến tranh một cách có lợi nhất bằng phát động khởi nghĩa từng phần trên quy mô rộng lớn, chuyển cách mạng miền Nam từ thế bảo toàn lực lượng sang thế tiến công, làm thất bại về cơ bản cuộc “chiến tranh đơn phương” của Mỹ - Ngụy. Từ đó tiến lên giành thế chủ động tiến công, lần lượt đánh bại các bước leo thang, các chiến lược chiến tranh của địch, tạo ra những bước ngoặt làm chuyển biến cục diện chiến tranh theo hướng có lợi cho ta, làm lung lay và đập tan dã tâm xâm lược của đế quốc Mỹ. Cuối cùng, kịp thời nắm lấy thời cơ lịch sử, mở những trận quyết chiến chiến lược, đánh nhanh, thắng gọn, kết thúc chiến tranh theo ý định của ta, giành thắng lợi hoàn toàn cho sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, mỗi quyết sách chiến lược đối nội cũng như đối ngoại, mỗi thắng lợi ở tiền tuyến cũng như ở hậu phương, trên chiến trường cũng như trên bàn đàm phán, trong giai đoạn mở đầu cũng như giai đoạn kết thúc chiến tranh, ở đâu cũng có dấu ấn tư duy độc lập, trí tuệ sáng tạo, bản lĩnh và nghị lực phi thường của đồng chí Lê Duẩn.
- Miền Nam hoàn toàn giải phóng, Tổ quốc thống nhất, cả nước cùng tiến lên CNXH, đồng chí tiếp tục có những cống hiến to lớn trong việc lãnh đạo, chỉ đạo sự nghiệp cách mạng XHCN nhằm đưa nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến lên CNXH, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Đây là một sự nghiệp vĩ đại chưa từng có tiền lệ trong lịch sử, do đó đầy những gian nan, thử thách. Mặt khác, trong thời gian này, chúng ta vừa phải xây dựng, kiến thiết đất nước, vừa phải tiến hành chiến tranh bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế đối với nhân dân Campuchia, chương trình phát triển kinh tế - xã hội bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Từ Đại hội V của Đảng, công cuộc xây dựng kinh tế bước đầu có sự điều chỉnh. Tuy có khuyết điểm sai lầm như Đại hội VI đã vạch ra, kế hoạch 1981 - 1985 vẫn đạt những thành tựu quan trọng trong thế bị bao vây chống phá từ bên ngoài. Một số công trình lớn về công nghiệp, giao thông như: điện, dầu khí, xi măng, cầu đường, thủy lợi được xây dựng những năm đó, vừa là cơ sở vật chất - kỹ thuật ban đầu tối cần thiết của đất nước, vừa là nơi đào tạo đội ngũ cán bộ kỹ thuật, công nhân lành nghề rất quan trọng cho thời kỳ đổi mới. Tư tưởng “làm cho sản xuất bung ra” trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 (khóa IV), về khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động (Chỉ thị 100 của Ban Bí thư, tháng 1 - 1981), về xác định quyền chủ động sản xuất kinh doanh và quyền tự chủ về tài chính của các xí nghiệp quốc doanh (Nghị quyết 25/CP,1981) là những nhân tố đầu tiên của quá trình đổi mới, làm cơ sở để đến Đại hội VI chính thức thông qua đường lối đổi mới toàn diện, tạo bước ngoặt thật sự trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước.
2. Đồng chí Lê Duẩn - nhà lý luận xuất sắc, một tư duy sáng tạo lớn của cách mạng Việt Nam
Có mặt trong đội ngũ những người cộng sản ngay từ khi Đảng mới ra đời, với gần 60 năm hoạt động cách mạng, trong đó có 26 năm trên cương vị Bí thư thứ nhất và Tổng Bí thư của Đảng, đồng chí Lê Duẩn đã trải qua suốt cuộc trường chinh đầy thử thách cho đến khi hoàn thành trọn vẹn công cuộc giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước tiến lên CNXH. Đồng chí đã thể hiện rõ là một nhà lý luận lớn có tầm cỡ chiến lược của cách mạng Việt Nam. Trưởng thành trong thực tiễn cách mạng, dày dạn kinh nghiệm đấu tranh, đồng chí Lê Duẩn rất coi trọng nghiên cứu lý luận, học tập lý luận, rèn luyện tư duy lý luận, trăn trở suy nghĩ nhằm tìm ra và giải quyết các vấn đề lý luận của cách mạng Việt Nam. Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, trên cơ sở tổng kết thực tiễn, đồng chí đã góp phần quan trọng cùng với Chủ tịch Hồ Chí Minh và Ban chấp hành Trung ương Đảng hoạch định đường lối chiến lược và phương pháp cách mạng của Đảng trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, trong các cuộc chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc cũng như trong việc tìm tòi con đường đưa nước ta từ một nền sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn XHCN. Đồng chí đã để lại cho chúng ta di sản tư tưởng lý luận phong phú trên nhiều lĩnh vực: chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, ngoại giao, xây dựng Đảng… mà nổi bật là tư duy lý luận về các vấn đề sau:
* Về chiến tranh nhân dân Việt Nam
Kế thừa di sản chiến tranh nhân dân của dân tộc ta, kết hợp với vận dụng khoa học quân sự Mác - Lênin cùng với những kinh nghiệm cách mạng và chiến tranh cách mạng của nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là từ thực tiễn của cách mạng miền Nam, đồng chí đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề về đường lối chiến lược và phương pháp cách mạng, về đường lối kháng chiến và phương thức tiến hành chiến tranh trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Đồng chí Lê Duẩn đã đúc kết rằng, chiến tranh nhân dân Việt Nam bao gồm hai lực lượng: lực lượng vũ trang và lực lượng chính trị, đấu tranh vũ trang kết hợp với đấu tranh chính trị, kết hợp tiến công quân sự với nổi dậy của quần chúng giành chính quyền, làm chủ ngay trong chiến tranh. Đường lối chính trị của Đảng trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân là dựa vào sức mạnh đoàn kết rộng rãi toàn dân tộc, lấy công nông liên minh làm nền tảng, dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân. Những quan điểm đó được đồng chí đúc rút và vận dụng trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Đặc biệt, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đồng chí đã có những cống hiến quan trọng vào quá trình chỉ đạo cách mạng và chiến tranh cách mạng, nổi bật lên một số tư duy chiến lược sau:
- Một là, tư tưởng dám đánh, dám thắng đế quốc Mỹ xâm lược. Trong tác phẩm Thư vào Nam khi phân tích so sánh lực lượng giữa ta và địch, đồng chí Lê Duẩn viết: “Thành bại của một cuộc cách mạng, nói cho cùng, là do lực lượng so sánh quyết định. Trong chiến tranh, kẻ nào mạnh thì thắng, kẻ nào yếu thì thua. Song nói mạnh, yếu là nói theo quan điểm cách mạng, quan điểm phát triển; là căn cứ vào sự đánh giá tổng hợp cả quân sự và chính trị, cả thế lực và thời cơ, cả điều kiện khách quan và nghệ thuật lãnh đạo, là xem xét các yếu tố ấy trong quá trình vận động, trong không gian và thời gian nhất định. Không thể chỉ lấy số lượng quân đội, đơn vị, đồn bốt, số lượng vũ khí, trang bị và phương tiện chiến tranh để so sánh và đánh giá mạnh yếu”. Đây là một tư tưởng lớn của thời đại được khẳng định trên cơ sở phân tích, đánh giá đúng lực lượng so sánh giữa ta và địch. Vận dụng cách so sánh lực lượng của Chủ tịch Hồ Chí Minh thời kỳ chống thực dân Pháp, đồng chí Lê Duẩn đã đề ra cách xem xét so sánh lực lượng một cách khoa học. Phân tích rõ mặt mạnh, mặt yếu của ta và Mỹ, đồng chí đi đến kết luận: Chúng ta không đánh giá thấp âm mưu và lực lượng của Mỹ, nhưng không choáng ngợp trước sức mạnh vật chất - kỹ thuật của Mỹ, bởi trong chiến tranh xâm lược Việt Nam, đế quốc Mỹ không mạnh như người ta tưởng. Nhân dân ta có khả năng đánh thắng chúng.
- Hai là, nắm vững tư tưởng chiến lược tiến công và nghệ thuật đánh thắng từng bước. Ta nêu cao quyết tâm dám đánh dám thắng, nhưng “ta phải thắng và có thể thắng đến mức nào, Mỹ phải thua và có thể thua đến mức nào?”. Đồng chí cho rằng muốn tránh sai lầm cơ hội chủ nghĩa hữu khuynh và tả khuynh, người lãnh đạo phải trả lời câu hỏi đó, nghĩa là phải đo lường cho đúng mức độ, đề ra yêu cầu đánh thắng địch một cách có lợi nhất trong từng giai đoạn chiến tranh và trong toàn bộ cuộc chiến tranh. Đánh một kẻ địch hung ác xảo quyệt, có tiềm lực rất lớn về kinh tế và quân sự, ta phải đánh lâu dài trên thế tiến công, song phải biết thắng địch trong từng bước cho đúng, thực hiện phương châm chiến lược “đánh lùi địch từng bước, đánh đổ địch từng bộ phận, kéo địch xuống thang từng bước, tạo lực, tạo thế, tạo thời cơ để ta tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn”. Phương châm đó cũng là nghệ thuật hạn chế chỗ mạnh, khoét sâu chỗ yếu của địch, tạo điều kiện cho ta bồi dưỡng và phát triển lực lượng vũ trang và chính trị của mình, làm thay đổi lực lượng so sánh có lợi cho ta, khiến địch càng đánh càng suy yếu, ta càng đánh càng thắng to.
- Ba là, quan điểm sử dụng bạo lực cách mạng với hai lực lượng chính trị và vũ trang, với hai hình thức đấu tranh cơ bản chính trị và quân sự. Đồng chí nhấn mạnh rằng: trong cách mạng miền Nam, chính trị là cái gốc, là chỗ dựa cực kỳ quan trọng của chiến tranh giải phóng. Kết hợp chính trị với quân sự; chính trị, quân sự đi đôi với nhau, đó là đặc điểm nổi bật nhất của chiến tranh nhân dân Việt Nam, khiến nó trở thành một cuộc chiến tranh thực sự mang tính nhân dân, chiến tranh của cả một dân tộc đứng lên cứu nước.
- Bốn là, đánh địch và thắng địch bằng sức mạnh tổng hợp. Đồng chí chỉ rõ: lãnh đạo chiến tranh, nói cho cùng là tạo ra cho được sức mạnh tổng hợp của các mặt chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, vật chất kỹ thuật, tư tưởng tinh thần; là sức mạnh của ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội gắn chặt với sức mạnh của ba dòng thác cách mạng của thời đại. Sức mạnh của tư tưởng chiến lược đánh địch trên ba mặt trận: quân sự, chính trị, ngoại giao; trên ba vùng chiến lược: vùng núi, nông thôn đồng bằng và thành thị; bằng ba mũi giáp công: quân sự, chính trị, binh vận.
Đối với đất nước ta, phải đương đầu với kẻ thù trang bị hiện đại bậc nhất thế giới, áp dụng chiến tranh nhân dân với những tư duy chiến lược trên là hoàn toàn đúng đắn, sáng tạo. Một đặc trưng nổi bật trong tư duy chiến lược của đồng chí Lê Duẩn là tinh thần độc lập, tự chủ. Đồng chí thường nhắc nhở: ta đúng vì ta độc lập, tự chủ và có độc lập, tự chủ thì mới có sáng tạo. Trước những tác động khách quan của tình hình quốc tế, Đảng ta vẫn giữ vững đường lối, cách làm của mình đồng thời thực hiện chính sách đoàn kết quốc tế đúng đắn. Do đó cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta đã giành thắng lợi, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên CHXH.
* Về cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Trong khoảng 30 năm ở cương vị đứng đầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đồng chí Lê Duẩn đã ra sức tìm tòi lý luận và đã có những cống hiến đầy sáng tạo đối với sự hình thành lý luận về cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam nửa sau thế kỷ XX, những sáng tạo lý luận đó có ý nghĩa và ảnh hưởng rất lớn tới việc hình thành quan điểm, đường lối và chính sách của Đảng ta.
Trong tác phẩm “Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội, tiến lên giành những thắng lợi mới” viết năm 1970, đồng chí Lê Duẩn đã tổng kết những bài học mang tính lý luận về giai đoạn cách mạng đã qua, chỉ ra phương hướng, nhiệm vụ của giai đoạn mới, vừa tiến hành cách mạng XHCN trên miền Bắc, xây dựng hậu phương vững mạnh của cả nước, vừa tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, tiến tới thống nhất Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế.
Sau khi đất nước thống nhất, cả nước cùng tiến lên CNXH, đồng chí đã góp phần làm sáng tỏ nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn nhằm xác định và hoàn chỉnh đường lối cách mạng XHCN ở nước ta - một nước nông nghiệp lạc hậu, tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Đường lối ấy thể hiện những tư tưởng lớn của đồng chí về giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và CHXH, kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại; về nắm vững chuyên chính vô sản và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động; về cơ chế Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý… Đó là quan điểm về “tiến hành đồng thời 3 cuộc cách mạng, cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học - kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hóa trong đó có cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt”. Luận điểm này không chỉ đúng về thực chất mà còn thể hiện được sự nhạy bén, sắc sảo của đồng chí khi sớm thấy được vai trò của khoa học - kỹ thuật. Đó là quan điểm về con đường đi từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đây là một luận điểm giúp uốn nắn quan điểm “tả” khuyên rập khuôn bên ngoài về đấu tranh giai cấp. Tinh thần cơ bản của luận điểm này đến nay vẫn được thể hiện trong văn kiện Đại hội IX của Đảng. Đó là quan điểm về xây dựng nền văn hóa mới, con người mới xã hội chủ nghĩa. Đồng chí Lê Duẩn cho rằng con người ta không chỉ sống với nhau vì miếng cơm manh áo mà còn có đời sống tình cảm. Đồng chí nhấn mạnh đến “lao động, tình thương và lẽ phải” vì vậy theo đồng chí, vấn đề xây dựng và phát triển văn hóa, con người giữ vị trí hết sức trọng yếu.
Một nét độc đáo sáng tạo nữa trong quan điểm về cách mạng xã hội chủ nghĩa mà đồng chí Lê Duẩn đưa ra đó là khái niệm về “bước đi ban đầu”. Theo đồng chí con đường đi lên xã hội chủ nghĩa là không được nóng vội mà phải có những bước đi ban đầu thật chắc chắn. Tại Đại hội V của Đảng (3-1982), đồng chí Lê Duẩn nêu ra khái niệm Chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ với xây dựng những tiền đề để chính trị, kinh tế, xã hội cần thiết. Đẩy nhanh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trên quy mô lớn. Đó chính là sự trở lại quan điểm đúng đắn và khoa học về bước đi ban đầu. Quan điểm này là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mac - Lê nin vào thực tiễn xã hội Việt Nam.
* Về xây dựng Đảng
Gắn bó suốt đời với công tác Đảng, đồng chí Lê Duẩn đã dành nhiều công sức cho xây dựng đường lối chính trị đúng đắn, kết hợp công tác tư tưởng với công tác tổ chức, nâng cao sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của Đảng ngang tầm yêu cầu của sự nghiệp cách mạng. Lý luận của đồng chí Lê Duẩn về công tác xây dựng Đảng cho thấy sự sáng tạo trong nội dung và phương châm chỉ đạo của Đảng cầm quyền, tính sáng tạo đó thể hiện ở 05 quan điểm chính: Một là, đồng chí cho rằng, để làm tốt công tác xây dựng Đảng trong điều kiện mới đòi hỏi các cấp bộ Đảng phải hiểu rõ điều kiện ra đời hoạt động của Đảng ta, từ đó thấy rõ điểm mạnh, điểm yếu của Đảng để chỉ đạo công tác xây dựng Đảng. Hai là, đồng chí Lê Duẩn yêu cầu công tác xây dựng Đảng phải coi trọng cả ba mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức. Ba là, Đảng chỉ có thể được xây dựng trong phong trào cách mạng của quần chúng, nếu không thấy được vai trò của quần chúng thì Đảng dễ xa rời dân, làm quyền và hống hách với nhân dân, vì vậy theo đồng chí Lê Duẩn việc cho quần chúng tham gia xây dựng Đảng là một yêu cầu không thể thiếu được trong điều kiện Đảng lãnh đạo chính quyền. Bốn là, việc xây dựng Đảng trong điều kiện Đảng lãnh đạo chính quyền phải luôn gắn liền với việc xây dựng chính quyền Nhà nước. Đồng chí cho rằng: hiệu lực của bộ máy Nhà nước thể hiện năng lực lãnh đạo của Đảng và thông qua bộ máy Nhà nước, Đảng thể hiện sự lãnh đạo của mình với toàn xã hội. Mặt khác, đồng chí vạch rõ cần chống khuynh hướng coi nhẹ vai trò và trách nhiệm của tổ chức Đảng trong cơ quan Nhà nước, chống việc xem nhẹ hoặc tách rời hoạt động của cấp ủy Đảng với hoạt động của cơ quan Nhà nước. Năm là, là một hệ thống thống nhất, Đảng không chỉ mạnh ở từng người mà trước hết là cả ở tổ chức, trong toàn bộ cơ thể. Vì vậy trong công tác xây dựng Đảng không chỉ nâng cao chất lượng đảng viên mà cần nâng cao chất lượng tổ chức Đảng.
Với tư duy độc lập, sáng tạo, đồng chí Lê Duẩn đã có những đóng góp quan trọng vào kho tàng lý luận cách mạng Việt Nam. Nhiều vấn đề được đồng chí làm sáng tỏ về mặt lý luận đã được thực tiễn kiểm nghiệm là đúng đắn, sáng tạo. Cũng có những vấn đề còn quá mới, còn ở bước đầu khai phá, thử nghiệm, chưa thật đầy đủ, đòi hỏi phải có thời gian để bổ sung, phát triển hoàn thiện. Có những vấn đề cũng chưa vượt lên khỏi mô hình kinh tế đang bao trùm cả phe XHCN trong những năm 70, 80 của thế kỷ XX.
Điều chủ yếu toát lên từ tấm gương của đồng chí Lê Duẩn đó là một nhà lãnh đạo, một nhà lý luận suốt đời say mê tìm tòi, sáng tạo, luôn nêu cao phong cách tư duy độc lập, tự chủ, luôn xới lật vấn đề khuyến khích tranh luận để tiếp cận chân lý.
Công lao, cống hiến của đồng chí Lê Duẩn đối với cách mạng Việt Nam, đặc biệt những sáng tạo của đồng chí về lý luận và đường lối cách mạng trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, đã nâng trình độ tư duy của Đảng ta, dân tộc ta lên một tầm cao mới, góp phần làm phong phú kho tàng lý luận của cách mạng Việt Nam.
3. Đồng chí Lê Duẩn - người chiến sĩ quốc tế trong sáng
Là một nhà yêu nước lớn, đồng chí Lê Duẩn còn là một chiến sĩ quốc tế trong sáng, suốt đời trung thành với chủ nghĩa Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chăm lo củng cố và tăng cường đoàn kết giữa các Đảng anh em, giữa các lực lượng cách mạng và tiến bộ trên thế giới trong cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Đồng chí đã thay mặt Đảng ta đề xuất với các Đảng cộng sản anh em, với phong trào cách mạng thế giới những luận điểm quan trọng về giải quyết các mối quan hệ mang tính thời đại như: chiến tranh và hòa bình, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, về tình hữu nghị giữa các dân tộc… Năm 1960 đồng chí đã cùng một số đồng chí trong Ban Chấp hành Trung ương Đảng ta hai lần tham dự Hội nghị các Đảng cộng sản và công nhân quốc tế họp ở Bucaret và Mát-xcơ-va. Tại các diễn đàn này, đồng chí Lê Duẩn luôn kiên định lập trường quốc tế của Đảng ta: Cùng tồn tại hòa bình phải đi đôi với đấu tranh chống đế quốc – nguồn gốc gây chiến tranh, hai mặt tác động qua lại với nhau. Vì vậy, muốn bảo vệ hòa bình phải dập tắt lò lửa gây ra chiến tranh là chủ nghĩa đế quốc và đó chính là những biện pháp bảo vệ hòa hình hữu hiệu nhất. Đồng chí khẳng định: “Chiến lược đấu tranh cho hòa bình bao gồm một cách tất yếu chính sách cùng tồn tại hòa bình giữa các nước có chế độ chính trị khác nhau. Chính sách cùng tồn tại hòa bình phải là và chỉ có thể là một bộ phận nằm trong toàn bộ chiến lược đấu tranh cho hòa bình”.
Những luận điểm và thái độ đúng đắn của Đảng ta về chiến lược và sách lược của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, về sự cần thiết phải đoàn kết phong trào cộng sản, thành lập Mặt trận nhân dân thế giới chống chủ nghĩa đế quốc, là những đóng góp quan trọng góp phần củng cố và tăng cường sự đoàn kết thống nhất phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, trong Mặt trận nhân dân thế giới chống chủ nghĩa đế quốc, bảo vệ hòa bình.
Trong hoạt động đối ngoại, trước sự chia rẽ trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế trong những năm 60 của thế kỷ XX là trở ngại lớn nhất đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Trong bối cảnh đó, đồng chí Lê Duẩn cho rằng Đảng ta cần phải có một đường lối đối ngoại đúng đắn, độc lập, tự do, vừa đáp ứng được lợi ích dân tộc, vừa đáp ứng được yêu cầu của cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội.
Kiên định lập trường quyết tâm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, chủ trương kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, Đảng ta đẩy mạnh hoạt động đối ngoại, tranh thủ sự ủng hộ của các lực lượng yêu chuộng hòa bình, tiến bộ trên thế giới. Hàng loạt phái đoàn ngoại giao của Đảng, Nhà nước ta được cử ra nước ngoài để thực thi sứ mệnh vô cùng quan trọng nói trên. Qua đàm phán, nhiều nguồn viện trợ đã được ký kết, nhiều tổ chức đoàn kết với Việt Nam (kể cả tổ chức chính phủ hoặc phi chính phủ), các đoàn thể chính trị ở nhiều nước, bạn bè, anh em trên khắp thế giới được thành lập để ủng hộ, giúp đỡ Việt Nam. Đó không chỉ là thắng lợi về chính trị, ngoại giao, kinh tế, quốc phòng, mà còn tạo được sự hậu thuẫn lớn cả về vật chất và tinh thần cho cuộc kháng chiến của nhân dân ta chống đế quốc Mỹ xâm lược.
Chủ trương tăng cường hoạt động đối ngoại, tìm kiếm sự ủng hộ quốc tế, đồng thời đồng chí Lê Duẩn cũng luôn nhắc nhở các cấp, các ngành, các địa phương phải nâng cao tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực cánh sinh, tránh ỷ lại. Đồng chí khẳng định: “Chúng ta cần nêu cao tinh thần tự lực cánh sinh, chống tư tưởng sợ Mỹ, tư tưởng đàm phán khi chưa có điều kiện có lợi, muốn kết thúc chiến tranh với bất cứ giá nào, tư tưởng ỷ lại vào sự giúp đỡ của nước ngoài, không tin tưởng vào sức mình”.
Quán triệt sâu sắc quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh “giúp bạn là tự giúp mình”, trong quá trình chỉ đạo công tác đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta, đồng chí Lê Duẩn luôn dành sự quan tâm đến các phong trào cách mạng trên thế giới, thể hiện trách nhiệm của Đảng và dân tộc ta đối với cuộc chiến đấu của ba nước Đông Dương trong thời kỳ chống đế quốc Mỹ xâm lược.
Quan điểm và những hoạt động của đồng chí Lê Duẩn không chỉ góp phần quan trọng đối với thành công của Đảng và Nhà nước ta trên mặt trận đối ngoại mà còn góp phần vào việc củng cố tình đoàn kết giữa các lực lượng hòa bình, dân chủ và tiến bộ trên thế giới, đặc biệt là góp phần cũng cố tình đoàn kết giữa các Đảng và nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa, tình đoàn kết, chiến đấu đặc biệt giữa nhân dân ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia.

 

Tác giả bài viết: TGCĐ (st)

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây