MỘT SỐ ĐIỂM MỚI CỦA LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI SỬA ĐỔI

Thứ sáu - 29/05/2015 04:09 977 0
Ngày 20/11/2014, Luật Bảo hiểm xã hội (BHXH) sửa đổi đã được Quốc hội khóa XIII thông qua tại Kỳ họp thứ Tám, gồm 09 Chương, 125 Điều, quy định chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội; quyền và trách nhiệm của người lao động, người sử dụng lao động; cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến BHXH, tổ chức đại diện tập thể lao động, tổ chức đại diện người sử dụng lao động; cơ quan BHXH; Quỹ BHXH; thủ tục thực hiện BHXH và quản lý nhà nước về BHXH. Ban biên tập xin trích đăng các điểm mới của Luật để quý bạn đọc cập nhật, theo dõi
1. Thêm đối tượng tham gia BHXH bắt buộc từ ngày 1/1/2018  
Luật Bảo hiểm xã hội sửa đổi mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội (BHXH) bắt buộc đến người lao động có hợp đồng lao động từ 1 tháng đến dưới 3 tháng, người lao động là công dân nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam có giấy phép lao động được cơ quan thẩm quyền của Việt Nam cấp (áp dụng từ 1/1/2018 để bảo đảm tính khả thi); người hoạt đông không chuyên trách ở cấp xã.
          Với đối tượng áp dụng BHXH tự nguyện, bỏ quy định giới hạn trần tuổi tham gia BHXH tự nguyện. Đồng thời để khuyến khích người dân tham gia BHXH tự nguyện, Luật bỏ quy định mức sàn thu nhập đóng BHXH tự nguyện thấp nhất bằng mức lương tối thiểu chung (nay là mức lương cơ sở) để phù hợp với khả năng tham gia của người dân và quy định Nhà nước hỗ trợ người tham gia BHXH tự nguyện.
          Người lao động có thêm quyền được nhận lương hưu, trợ cấp BHXH theo các phương thức chi trả trực tiếp tại cơ quan BHXH  hoặc thông qua tổ chức dịch vụ, tài khoản tiền gửi hoặc thông qua người sử dụng lao động; hưởng bảo hiểm y tế trong thời gian nghỉ việc hưởng trợ cấp thai sản khi sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi và nghỉ việc hưởng trợ cấp ốm đau đối với người lao động mắc bệnh thuộc danh mục cần chữa trị dài ngày; người lao động bảo lưu thời gian đóng BHXH, người bị tái phát thương tật, bệnh tật do tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp và thân nhân người lao động được chủ động đi giám định mức suy giảm khả năng lao động để làm căn cứ hưởng chế độ BHXH và được quỹ BHXH thanh toán phí giám định y khoa trong trường hợp không do người sử dụng lao động giới thiệu khám định; được người sử dụng lao động định kỳ cung cấp thông tin về việc đóng BHXH, hằng năm được cơ quan BHXH xác nhận thời gian đóng BHXH.
          Tuy nhiên, thay đổi cơ bản và lớn nhất trong nội dung này là quy định người lao động trong thời gian đang đóng BHXH được quản lý sổ BHXH của mình để theo dõi quá trình đóng - hưởng BHXH. Điều này khác quy định hiện hành giao cho người sử dụng lao động quản lý.
          Luật quy định người sử dụng lao động định kỳ sáu tháng niêm yết công khai thông tin về việc đóng BHXH cho người lao động; bỏ quy định quản lý sổ BHXH khi người lao động đang làm việc (chỉ thực hiện làm thủ tục chốt sổ BHXH khi thôi việc); bổ sung trách nhiệm giới thiệu người bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp nhiều lần ra Hội đồng giám định y khoa để giám định tổng hợp mức suy giảm khả năng lao động.
2. Nhiều nội dung mới trong chế độ BHXH bắt buộc
Mức hưởng trợ cấp ốm đau một ngày bằng mức trợ cấp ốm đau theo tháng chia cho 24 ngày, cao hơn so với 26 ngày hiện tại.
Quy định một mức hưởng chung đối với nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe sau khi ốm đau, thai sản một ngày bằng 30% mức lương cơ sở, khác với quy định hiện hành là hai mức: 25% đối với nghỉ tại gia đình và 40 % đối với nghỉ tập trung.
          Về chế độ thai sản, lao động nam có vợ sinh con được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản năm ngày làm việc với trường hợp sinh thường, bảy ngày làm việc với trường hợp sinh con phải phẩu thuật, đẻ dưới 32 tuần tuổi; 10 ngày nếu sinh đôi và thêm ba ngày/một con nếu sinh ba trở lên…
          Luật sửa đổi điều kiện hưởng chế độ thai sản trong trường hợp lao động nữ có thời gian đóng BHXH từ đủ 12 tháng, nhưng vì lý do thai không bình thường, phải nghỉ việc để dưỡng thai theo chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền thì chỉ cần bảo đảm điều kiện đóng BHXH từ đủ ba tháng trở lên trong thời gian 12 tháng trước khi sinh con.
          Trong trường hợp chỉ có mẹ tham gia BHXH, hoặc cả cha và mẹ đều tham gia BHXH mà mẹ chết sau khi sinh con, cha hoặc người trực tiếp nuôi dưỡng được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản đối với thời gian còn lại của người mẹ. Người mẹ không đủ thời gian đóng BHXH thì người cha nghỉ đến khi con đủ 6 tháng tuổi.
          Trường hợp chỉ có cha tham gia BHXH, khi vợ sinh con thì cha được trợ cấp một lần bằng hai tháng tiền lương cơ sở cho mỗi con.
          Tăng thêm một tháng cho thời gian lao động nữ nghỉ thai sản trong trường hợp con chết sau khi sinh, quy định chế độ thai sản của lao động nữ mang thai hộ và người mẹ nhờ mang thai hộ theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình sửa đổi.
          Về chế độ hưu trí, sửa đổi điều kiện về tuổi đời hưởng lương hưu đối với người suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên theo hướng: tăng dần mỗi năm một tuổi từ 1/1/2016 đến khi nam đủ 55 tuổi, nữ đủ 50 tuổi trở lên (hiện nay là 50 và 45); đối với người bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên tuổi nghỉ hưu là nam đủ 50 tuổi, nữ đủ 45 tuổi.
          Mở rộng điều kiện hưởng lương hưu đối với lao động nữ hoạt động chuyên trách hoặc không chuyên trách ở cấp xã chỉ cần có đủ 15 năm đóng BHXH và đủ 55 tuổi. Tuy nhiên, đối tượng này không được điều chỉnh lương hưu theo mức lương cơ sở nếu mức lương hưu thấp hơn mức lương cơ sở.
3. Công thức mới cho lương hưu
          Luật BHXH 2014 sửa đổi cách tính tỷ lệ hưởng lương hưu theo lộ trình tăng dần số năm đóng BHXH đối với lao động nam để được hưởng 45% mức bình quân tiền lương tháng.
Theo đó lao động nam nghỉ hưu từ năm 2018 trở đi mỗi năm tăng thêm một năm cho đến khi 20 năm đóng BHXH tương ứng với 45% (năm 2018 là 16 năm; năm 2019 là 17 năm; năm 2020 là 18 năm; năm 2021 là 19 năm và từ năm 2022 trở đi là 20 năm.
Đối với nữ 15 năm đóng BHXH tương ứng với 45% và sau đó cả nam và nữ đều tính thêm 2% cho mỗi năm, mức tối đa bằng 75%.
Như vậy, để đạt được mức hưởng tối đa là 75%, nam phải đóng BHXH 35 năm và nữ là 30 năm.
Luật cũng tăng tỷ lệ giảm trừ do nghỉ hưu trước tuổi từ 1% lên 2% cho mỗi năm nghỉ hưu trước tuổi.
Về quy định cụ thể về thời điểm hưởng lương hưu:
Đối với người đang đóng BHXH bắt buộc, thời điểm hưởng lương hưu là thời điểm ghi trong quyết định nghỉ việc do người sử dụng lao động lập khi người lao động đã đủ điều kiện hưởng lương hưu theo quy định.
Đối với người đang bảo lưu thời gian đóng BHXH, thời điểm hưởng lương hưu được tính bắt đầu từ tháng liền kề sau tháng người lao động đủ điều kiện hưởng lương hưu theo quy định.
Về mức bình quân tiền lương làm căn cứ tính lương hưu đối với người thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy định, Luật quy định lộ trình áp dụng cách tính lương bình quân theo năm bước để tiến tời thực hiện tính bình quân chung của cả quá trình đóng BHXH, bảo đảm bình đẳng giữa khu vực trong và ngoài nhà nước.
Cụ thể là, tính bình quân của năm năm cuối trước khi nghỉ hưu đối với người lao động tham gia BHXH trước năm 1995; tính bình quân của sáu năm cuối đối với tham gia BHXH trong thời gian từ ngày 1/1/1995 đến 31/12/2000; tính bình quân của tám năm cuối đối với người tham gia BHXH trong thời gian từ 1/1/2001 đến 31/12/2006 (như quy định hiện hành); tham gia BHXH từ ngày Luật có hiệu lực thi hành đến 31/12/2019 thì tính bình quân của 15 năm cuối trước khi nghỉ hưu; tham gia BHXH từ ngày 1/1/2020 đến 31/12/2024; tính bình quân của tiền lương tháng đóng BHXH của 20 năm cuối; tham gia BHXH từ ngày 1/1/2025 trở đi thì tính bình quân của tiền lương tháng đóng BHXH của toàn bộ thời gian.
Về BHXH một lần (Điều 60 luật BHXH), sửa đổi quy định điều kiện hưởng BHXH một lần để hạn chế tối đa việc hưởng BHXH một lần nhằm đảm bảo an sinh xã hội lâu dài, cụ thể: Chỉ giải quyết BHXH một lần đối với người lao động khi đã hết tuổi lao động mà không đủ điều kiện hưởng lương hưu hoặc ra nước ngoài để định cư hợp pháp; bổ sung quy định giải quyết BHXH một lần đối với người mắc bệnh hiểm nghèo. Riêng đối với lực lượng vũ trang thực hiện như quy định hiện hành, được giải quyết ngay khi phục viên, xuất ngũ, nếu không đủ điều kiện để hưởng lương hưu và người lao động có nhu cầu;
Tăng mức trợ cấp BHXH một lần từ 1,5 tháng lên hai tháng mức bình quân tiền lương tháng đóng BHXH mỗi năm đóng BHXH từ năm 2014 trở đi (tương ứng mức đóng BHXH là 22 % cho quỹ hưu trí, tử tuất).
Về chế đ tử tuất, bổ sung điều kiện phải có đủ 12 tháng đóng BHXH bắt buộc trở lên đối với người đang tham gia hoặc bảo lưu thời gian đóng BHXH mới được hưởng trợ cấp mai táng (trừ trường hợp chết do tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp);
Bổ sung đối tượng giải quyết chế độ tử tuất đối với người hưởng lương hưu nhưng đang chấp hành hình phạt tù mà bị chết trong tù;
Bổ sung quy định cho phép thân nhân người lao động được lựa chọn hưởng trợ cấp tuất hàng tháng hoặc trợ cấp tuất một lần, trừ trường hợp có thân nhân là con dưới 6 tuổi, con hoặc vợ hoặc chồng mà bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên;
Bổ sung quy định trường hợp người lao động không có thân nhân quy định của Luật BHXH thì trợ cấp tuất một lần được thực hiện theo quy định của pháp luật về thừa kế;
Tăng trợ cấp tuất một lần đối với trường hợp người lao động đang đóng hoặc đang bảo lưu thời gian đóng BHXH chết từ 1,5 tháng lên hai tháng mức bình quân tiền lương tháng đóng BHXH cho mỗi năm đóng BHXH từ năm 2014 trở đi;
Bổ sung một điều quy định cụ thể về liên thông chính sách BHXH tự nguyện với chính sách BHXH bắt buộc.
Về BHXH tự nguyện, sửa đổi quy định cho phép người lao động đủ điều kiện về tuổi đời để hưởng lương hưu nhưng chưa đủ điều kiện về thời gian đóng BHXH được đóng cho đến khi đủ điều kiện để hưởng lương hưu (không khống chế tuổi trần tham gia BHXH tự nguyện như hiện hành).
Công thức tính lương hưu; thời điểm hưởng lương hưu; BHXH một lần; chế độ tử tuất… Sửa đổi tương đồng với chế độ BHXH bắt buộc.
4. Qũy BHXH bổ sung các nội dung chi:
- Đóng BHYT cho người nghỉ việc hưởng trợ cấp thai sản khi sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi và người nghỉ việc hưởng trợ cấp ốm đau đối với trong trường hợp bị mắc bệnh thuộc danh mục bệnh cần chữa trị dài ngày.
- Trả phí khám định y khoa đối với trường hợp không do người sử dụng lao động giới thiệu đi giám định mức suy giảm khẳ năng lao động mà kết quả giám định đủ điều kiện hưởng chế độ BHXH.
5. Về tiền lương tháng đóng BHXH bắt buộc:
Quy định tiền lương tháng đóng BHXH bắt buộc đối với người lao động thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do người sử dụng lao động quyết định được thiết kế theo hướng từ khi luật này có hiệu lực thi hành đến hết năm 2017 tiền lương tháng đóng BHXH bắt buộc là mức lương và phụ cấp lương ghi trên hợp đồng lao động theo pháp luật lao động. Từ ngày 1/1/2018 trở đi tiền lương tháng đóng BHXH bắt buộc là mức lương, phụ cấp lương và các khoản bổ sung khác theo quy định của pháp luật lao động.
6. Đơn giản hóa thủ tục hành chính
Về thủ tục thực hiện BHXH, có hai khác biệt căn bản trong quy định của Luật này.
Thứ nhất, thay đổi quy trình giải quyết chế độ ốm đau, thai sản theo hướng cơ quan BHXH tiếp nhận hồ sơ từ người sử dụng lao động, giải quyết và tổ chức chi trả cho người lao động trong các hình thức: Chi trả trực tiếp tại cơ quan BHXH; thông qua tổ chức dịch vụ được cơ quan BHXH ủy quyền; thông qua tài khoản tiền gửi cá nhân tại ngân hàng thương mại hoặc thông qua đơn vị sử dụng lao động;
Thứ hai, bổ sung trách nhiệm bồi thường theo quy định của pháp luật trong trường hợp nộp hồ sơ và giải quyết hưởng chế độ bảo hiểm xã hội chậm so với thời hạn quy định, gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người hưởng. Trách nhiệm này thuộc về người sử dụng lao động trong trường hợp nôp chậm hồ sơ đề nghị hưởng BHXH và trách nhiệm của cơ quan BHXH trong trường hợp giải quyết hưởng BHXH quá thời hạn.
7. Ngoài việc được giao chức năng thanh tra chuyên ngành về đóng BHXH, BHYT, BHTN, cơ quan BHXH còn được bổ sung quyền được yêu cầu người sử dụng lao động xuất trình sổ quản lý lao động, bảng lương và thông tin, tài liệu khác liên quan đến việc đóng, hưởng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế…
Hằng năm tổ chức BHXH xác nhận thời gian đóng BHXH cho từng người lao động; cung cấp đầy đủ và kịp thời thông tin về việc đóng, quyền được hưởng chế độ; hằng năm, cung cấp thông tin về việc đóng BHXH của người lao động để người sử dụng lao động niêm yết công khai; hằng năm, cơ quan BHXH tại địa phương báo cáo UBND cùng cấp về tình hình thực hiện BHXH, BHYT, BHTN.
8. Luật sửa đổi quy định về việc phạt đối với số tiền chưa đóng, chậm đóng bằng hai lần mức lãi suất đầu tư quỹ BHXH bình quân của năm trước liền kề tính trên số tiền, thời gian chậm đóng BHXH (Luật BHXH năm 2006 mức phạt chi 1 lần).
 
 
 

Tác giả bài viết: BBT

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây